DIỄN GIẢ


Ông Nguyễn Hồng Thắng là một trong những cán bộ tiên phong của Trung tâm Internet Việt Nam (VNNIC), đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng, phát triển, toàn bộ hệ thống kỹ thuật của NIC quốc gia Việt Nam, bao gồm các hệ thống hạ tầng Internet quan trọng quốc gia (Hệ thống máy chủ tên miền DNS quốc gia .VN và Trạm trung chuyển Internet quốc gia Việt Nam VNIX). Ông cũng triển khai nhiều dự án về ứng dụng công nghệ mới, phát triển Internet thế hệ mới, đảm bảo an toàn, tin cậy, bền vững cho hoạt động Internet Việt Nam: Triển khai tiêu chuẩn DNSSEC cho hệ thống DNS quốc gia; triển khai, chuyển đổi IPv6 toàn diện cho Internet Việt Nam; triển khai RPKI đảm bảo an toàn định tuyến Internet Việt Nam,…
Năm 2018, ông Nguyễn Hồng Thắng được trao tặng danh hiệu "IPv6 Hall of Fame" với những đóng góp thúc đẩy phát triển, ứng dụng IPv6 toàn cầu.

Giáo sư Jun Murai được biết đến là "Cha đẻ của Internet" tại Nhật Bản. Năm 1984, ông phát triển Mạng UNIX của Đại học Nhật Bản (JUNET), mạng liên trường đầu tiên tại quốc gia này.
Năm 1988, ông thành lập và hiện giữ vai trò thành viên Ban điều hành Dự án WIDE (WIDE Project). WIDE Project bao gồm các dự án nghiên cứu Internet của Nhật Bản.
Ông là hiệu trưởng của Trường Cao học Quản trị Truyền thông và là giáo sư tại Khoa Môi trường và Nghiên cứu Thông tin, Đại học Keio.
Ông đã từng giữ chức Chủ tịch Trung tâm Thông tin Mạng Nhật Bản (JPNIC) và Phó Chủ tịch Hiệp hội Internet Nhật Bản. Ông phục vụ trong Ban điều hành của Internet Society từ năm 1997 đến năm 2000. Năm 1998, ông được bổ nhiệm làm một trong chín giám đốc đầu tiên của Tổ chức quản lý tên miền và số quốc tế (ICANN) và giữ chức vụ đó đến tháng 6 năm 2003.
Năm 2005, ông được trao Giải thưởng Jonathan B. Postel Service của Internet Society, ghi nhận tầm nhìn và sự tiên phong trong việc phổ biến Internet trên khắp khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Ông được vinh danh với Giải thưởng IEEE năm 2011, ghi danh vào Internet Hall of Fame năm 2013 và được Chính phủ Pháp trao tặng Huân chương Bắc đẩu Bội tinh năm 2019.

Bill Woodcock là Tổng thư ký của Packet Clearing House. Đây là tổ chức hiệp ước liên chính phủ chịu trách nhiệm cung cấp hỗ trợ hoạt động và bảo mật cho cơ sở hạ tầng Internet quan trọng, bao gồm các Trạm Trung chuyển Internet và hệ thống tên miền.

Ông Nguyễn Trường Giang có nhiều năm kinh nghiệm trong việc nghiên cứu, thiết kế, xây dựng, quản lý và phát triển các hệ thống mạng, dịch vụ Internet, và các hệ thống an toàn an ninh. Có nhiều tham gia và đóng góp trong sự phát triển và đảm bảo an toàn Internet Việt Nam; xây dựng và phát triển cộng đồng kỹ thuật công nghệ trong và ngoài nước. Trải qua nhiều vai trò từ chuyên viên quản trị, vận hành, đến quản lý, nghiên cứu, phát triển, v.v.
Năm 2022, ông được bổ nhiệm làm Phó Giám đốc Trung tâm Internet Việt Nam (VNNIC), phụ trách mảng kỹ thuật công nghệ, quản lý, vận hành, phát triển các hệ thống Internet quan trọng quốc gia (Trạm trung chuyển Internet quốc gia VNIX, hệ thống DNS quốc gia), các hệ thống dịch vụ, an toàn an ninh của VNNIC.

Giáo sư Masaki Umejima hiện đang là nhà nghiên cứu cấp cao tại Viện Nghiên cứu toàn cầu, Đại học Keio Nhật Bản. Đồng thời, ông là thành viên Hội đồng Hệ thống Năng lượng thông minh, Ủy ban Kỹ thuật Điện quốc tế (IEC).
Ông có kinh nghiệm trong lĩnh vực thiết kế hệ thống quản lý thông tin, thiết kế cơ sở hạ tầng, nghiên cứu quản lý chính sách.




Ông Navaneethan C. Arjuman hiện là Chủ tịch của IPv6 & 5G Working Group, APAN. Ông có bằng Tiến sĩ về lĩnh vực Thành phần mạng Plug and Play (An ninh mạng) cấp bởi Trung tâm IPv6 nâng cao quốc gia, Đại học Khoa học Malaysia. Ông cũng có bằng danh dự hạng nhất về Truyền thông và xử lý tín hiệu của Đại học Staffordshire, Vương quốc Anh. Vào năm 2020, ông được trao tặng danh hiệu cho đóng góp vào công tác phổ biến IPv6 bởi IPv6 Hall of Fame.

Ông Nguyễn Trường Thành là Trưởng phòng Kỹ thuật, Trung tâm Internet Việt Nam (VNNIC), phụ trách các mảng nghiên cứu phát triển, chuyển đổi số, quản lý chất lượng dịch vụ và bảo đảm an toàn thông tin mạng. Với hơn 20 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực Internet, ông đã chủ trì và tham gia nhiều chương trình trọng điểm, đặc biệt là các kế hoạch quốc gia về triển khai DNSSEC và IPv6. Ông là một trong những chuyên gia chủ chốt, đóng góp vào việc xây dựng, vận hành và đảm bảo an toàn, tin cậy cho các hạ tầng Internet thiết yếu của Việt Nam.

Rowena là Trưởng phòng Chính sách tại NetBeacon Institute. Trước khi gia nhập NetBeacon, bà đã làm việc cho Cơ quan quản lý truyền thông của Vương quốc Anh (Ofcom), Nominet UK và Bộ Kỹ thuật số, Văn hóa, Truyền thông và Thể thao Vương quốc Anh. Rowena có hơn 10 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực chính sách. Bà có hai bằng Cử nhân Luật và Cử nhân Quan hệ Quốc tế và Khoa học Chính trị tại Đại học Quốc gia Úc (ANU).

Champika hiện là chuyên gia về công nghệ Internet và an ninh mạng giàu kinh nghiệm tại ICANN, đại diện cho ICANN trong các hoạt động tham gia kỹ thuật và an ninh ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương.
Champika thường xuyên được mời phát biểu hoặc đóng vai trò nhà chuyên môn tại nhiều diễn đàn an ninh quốc tế, INTERPOL, Hội đồng Châu Âu, v.v. Trong sự nghiệp học thuật và công tác, Champika đã nhận được nhiều giải thưởng xuất sắc, đồng thời phục vụ trong nhiều nhóm và ủy ban cộng đồng kỹ thuật khác nhau.


Ông Nguyễn Quang Vinh hiện là Giám đốc công nghệ HPE Việt Nam. Ông đã có hơn 20 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực Viễn thông, Công nghệ thông tin với nhiều vị trí từ kỹ sư phát triển đến quản lý công nghệ. Với chuyên sâu về lĩnh vực Viễn thông, Công nghệ thông tin, Ông đã cùng HPE Việt Nam tư vấn, hỗ trợ chính phủ doanh nghiệp xây dựng hạ tầng số hiện đại sẵn sàng cho chuyển đổi số.


Ông Lưu Tuấn Anh là một chuyên gia dày dạn kinh nghiệm trong lĩnh vực an ninh mạng và giải pháp điện toán đám mây, hiện đang đảm nhiệm vị trí Kỹ sư cấp cao tại Cloudflare khu vực Đông Nam Á. Anh sở hữu nền tảng vững chắc trong việc hỗ trợ các chương trình chuyển đổi số trên toàn khu vực, với chuyên môn sâu về hiện đại hóa môi trường ứng dụng doanh nghiệp, bảo mật hệ thống mạng và tối ưu hiệu năng trên các hạ tầng đám mây phức tạp.
Tại Cloudflare, Anh đóng vai trò then chốt trong việc hỗ trợ các tổ chức tái định hình chiến lược an ninh mạng bằng cách tích hợp các giải pháp bảo mật thông minh, được hỗ trợ bởi trí tuệ nhân tạo (AI), bao phủ toàn bộ tầng công nghệ — từ ứng dụng, hệ thống mạng đến lớp dữ liệu. Phương pháp tiếp cận mang tính tư vấn cùng với năng lực lãnh đạo kỹ thuật của Tuấn Anh đã giúp anh trở thành cố vấn tin cậy của các đội ngũ CNTT và an ninh mạng trong quá trình ứng phó với bối cảnh mối đe dọa không ngừng biến đổi như hiện nay.

Kỹ sư tư vấn giải pháp mạng với hơn 10 năm kinh nghiệm trong thiết kế, triển khai và tối ưu hóa hạ tầng mạng viễn thông, doanh nghiệp.

Sutrisno phụ trách phát triển kinh doanh các giải pháp mạng 5G riêng của Tập đoàn Pegatron tại khu vực Đông Nam Á.
Với nền tảng trong lĩnh vực tài chính công nghiệp và nhiều năm làm việc tại Đơn vị Kinh doanh 5G, ông hỗ trợ các doanh nghiệp và cơ quan chính phủ hiểu rõ tác động thực tiễn của 5G đối với sản xuất thông minh.
Dựa trên các mô hình triển khai thực tế tại nhà máy của Pegatron, ông kết nối giữa công nghệ, vận hành và giá trị tài chính nhằm thúc đẩy quá trình chuyển đổi số bền vững.

Trong suốt 23 năm làm việc tại APNIC, Srinivas đã đảm nhiệm nhiều vai trò và trách nhiệm khác nhau, có kinh nghiệm sâu rộng về Quản trị Internet khu vực và gắn kết cộng đồng.
Trong vai trò hiện tại, Srinivas chịu trách nhiệm phát triển và duy trì các mối quan hệ cấp cao với các chính phủ, các tổ chức liên chính phủ, Thành viên APNIC, Cơ quan quản lý tài nguyên Internet quốc gia (NIR) và cộng đồng Internet Châu Á - Thái Bình Dương nói chung. Ông đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ cộng đồng APNIC thông qua việc phát triển các chính sách về tài nguyên số Internet, các sáng kiến xây dựng năng lực và các chương trình phát triển giới trẻ và các nhà lãnh đạo thế hệ tiếp theo.
Srinivas tăng cường sự tham gia và tương tác của cộng đồng Châu Á - Thái Bình Dương, đảm bảo những nỗ lực này phù hợp với tầm nhìn dài hạn của APNIC: duy trì một Internet có khả năng tương tác, mở, an toàn và ổn định. Ông tích cực hỗ trợ và đóng góp vào các sáng kiến quan trọng của APNIC nhằm thúc đẩy sứ mệnh của tổ chức đồng thời mở rộng tác động trong khu vực, không ngừng tìm kiếm các cơ hội mới để tăng cường sự hợp tác trên toàn cộng đồng Châu Á - Thái Bình Dương.

Bà Nguyễn Thị Oanh hiện giữ chức vụ Phó Trưởng phòng Hợp tác - Quản lý tài nguyên,thuộc Trung tâm Internet Việt Nam (VNNIC). Bà cũng đang giữ chức vụ Chủ tịch Diễn đàn các Tổ chức quản lý IP/ASN khu vực Châu Á – Thái Bình Dương (NIR SIG Chair). Bà Oanh phụ trách công tác về quản lý tài nguyên Internet (tên miền, địa chỉ IP/ASN), thúc đẩy chuyển đổi IPv6 Việt Nam, IPv6 For Gov, triển khai RPKI, … và tham gia xây dựng các chương trình, kế hoạch, chính sách liên quan đến tài nguyên Internet.

Ông Lê Khắc Chính là quản trị viên hệ thống DNS, làm việc tại Trung tâm Internet Việt Nam (VNNIC) từ năm 2016. Hiện tại, ông Chính đang phụ trách quản trị hệ thống máy chủ DNS Quốc gia .VN. Ông có kinh nghiệm trong triển khai tiêu chuẩn, công nghệ DNSSEC, IPv6; đào tạo, tư vấn triển khai hệ thống DNS cho các Bộ, Ngành, Sở KHCN.

Ông Nguyễn Xuân Trường có nhiều năm làm việc trong lĩnh vực quản trị hệ thống mạng. Hiện tại, ông Trường phụ trách quản trị hệ thống mạng DNS Quốc gia và Trạm trung chuyển lưu lượng Internet quốc gia (VNIX).

Bà Vũ Thị Hoàn là quản trị viên hệ thống DNS, làm việc tại Trung tâm Internet Việt Nam (VNNIC) từ năm 2016. Hiện tại, bà đang phụ trách quản trị hệ thống máy chủ DNS Quốc gia .VN. Bà có kinh nghiệm trong triển khai tiêu chuẩn, công nghệ DNSSEC, IPv6; đào tạo, tư vấn triển khai hệ thống DNS cho các Bộ, Ngành, Sở KHCN.

Ông Nguyễn Văn Trí giữ vai trò chuyên gia DNS và quản trị hệ thống cấp cao tại Trung tâm Internet Việt Nam (VNNIC) từ năm 2015. Với kinh nghiệm sâu rộng trong triển khai DNSSEC và phát triển các giải pháp giám sát, hiện ông phụ trách quản trị hệ thống tên miền quốc gia cấp cao nhất .VN (ccTLD). Trong vai trò này, ông đảm bảo sự ổn định, an toàn và hiệu quả cho hạ tầng DNS quốc gia của Việt Nam. Bên cạnh đó, ông cũng tích cực tham gia nghiên cứu, phát triển và ứng dụng các công nghệ mới nhằm nâng cao tính bảo mật và khả năng chống chịu của hệ thống DNS tại Việt Nam, góp phần bảo vệ hệ thống trước các mối đe dọa ngày càng gia tăng.